- Trang trí nhà
- Dream Wedding - Trang trí nhà hàng
- Mâm quả
- Cổng hoa
- Hoa cầm tay
- Xe hoa
- Video clip phóng sự cưới
- Cho thuê đồng phục bưng quả
- Lễ tân bưng quả
- Trang Trí phòng tân hôn
- Hoạt động công ty
- Đãi tiệc tại nhà
- Lập kế hoạch ngày cưới
- Phong tục đám cưới
- Hoa ngày cưới
- Đám cưới người nổi tiếng
- Thời trang cưới
- Video Clip ngày cưới
- Làm đẹp ngày cưới
- Tóc cô dâu
- Bánh cưới
- Vui cười ngày cưới
- Bí quyết tuần trăng mật
- Tình yêu, hôn nhân, gia đình
- Xả Stress trước ngày cưới
- Chuyện lạ
- Chuyện phòng the
- Câu hỏi thường gặp
Những phong tục đẹp trong đám cưới người Chăm Bàlamôn
Ninh Thuận lại mang nhiều nét văn hoá truyền thống hơn là văn hoá tôn giáo.
Tuy chịu ảnh hưởng của tôn giáo Bàlamôn, nhưng nghi lễ cưới xin của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận lại mang nhiều nét văn hoá truyền thống hơn là văn hoá tôn giáo.
Bởi trước khi tiếp nhận ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ, người Chăm cũng như các cư dân Đông Nam Á đã mang trong mình nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nghi lễ cưới xin người Chăm Bàlamôn, nhưng chưa có công trình nào bóc tách các lớp văn hoá và đi tìm những phong tục tập quán tốt đẹp trong của người Chăm trong đám cưới truyền thống ấy. Qua một công trình khoa học gần đây nghiên cứu về nghi lễ cưới xin của người Chăm Bàlamôn, chúng tôi xin ghi lại những phong tục lạ và đẹp của một đám cưới truyền thống người Chăm Bàlamôn Ninh Thuận.
Cũng như các dân tộc khác ở Việt Nam và ở Đông Nam Á, cưới xin là một trong những nghi lễ quan trọng trong các nghi lễ đời người, đánh dấu mốc kỷ niệm và bước ngoặt, nhiều khi còn là số phận của cuộc đời mỗi con người. Vì vậy, các bước của nghi lễ cưới xin phải qua đầy đủ trình tự thủ tục chặt chẽ, khá tương đồng giữa các dân tộc từ nghi thức mai mối, lễ hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt v.v... Tuy nhiên, do sự chồng xếp nhiều lớp văn hoá, lễ cưới người Chăm Bàlamôn mang nhiều nét đặc thù mà ít có ở các dân tộc khác ở Việt Nam.
Người Chăm vẫn duy trì chế độ mẫu hệ nên quyền chủ động trong hôn nhân thuộc về nhà gái. Khi con gái đến tuổi lấy chồng, cha mẹ đã phải lo nhắm trước những chàng trai trong vùng để "lựa rể" cho con mình, và vì là nhà gái, nên cha mẹ bao giờ cũng phải giữ "tiếng" cho con gái mình, mọi nghi thức mai mối dạm hỏi thường được diễn ra "bí mật" tuyệt đối, vì lỡ sự dạm hỏi không thành, ảnh hưởng tới "tiếng" của cô gái và vì vậy lần dạm hỏi sau sẽ khó hơn. Cũng vì lý do này mà nhà gái phải mời ông mai bà mối là những người khéo ăn nói, khi đi dạm hỏi phải biết nói xa gần, bóng gió, ví von bằng hình ảnh đon sơ mộc mạc như con trâu, cái cày, chiếc xe trâu, ví dụ như những câu: "Ruộng nhà tôi đang vào mùa vụ, nhà tôi muốn tậu con trâu nhà chị về nuôi...". Đồng thời thăm dò bằng được ý tứ của đằng nhà trai.
Ngoài ra, ông mai bà mối phải là người đàng hoàng, "một kèo một cột" (một vợ một chồng) gia đình hoà thuận, con cái đông đúc, có uy tín trong làng và đã nhiều lần mai mối thành công. Nếu nhà trai đồng ý, ông mai bà mối đi lại bàn bạc với nhà trai nhiều lần để bàn những bước tiếp theo.
Lễ vật trong lễ hỏi của người Chăm thường rất đơn giản, chỉ có trầu cau, rượu, bánh pay nung (một loại bánh dân tộc giống như bánh tét), một vài loại trái cây. Đồ ăn thức uống trong đám cưới là những món ăn cổ truyền Chăm làm từ các loại nông sản và vật nuôi như thịt gà, thịt vịt, cá, bún, súp, các loại canh rau, đặc biệt là phải có cá đuối vì người Chăm quan niệm cá đuối là loại cá đẻ ra con, với ý niệm là đôi vợ chồng trẻ sẽ mau mắn có con, ngoài ra, cá đuối còn tượng trưng cho ánh sáng. Phong tục xưa quy định, trong lễ cưới, ngày đầu tiên chỉ ăn toàn cá đuối.
Lễ hỏi diễn ra đơn giản trên những chiếc chiếu trải trên sân nhà. Bà bóng dòng tộc sẽ làm một lễ cúng ông bà tổ tiên rồi mọi người trò chuyện vui vẻ. Trước khi ra về, đại diện nhà gái mời đại diện nhà trai đến "làm khách" nhà gái. Nhà gái sẽ tổ chức một bữa tiệc mặn đón nhà trai. Buổi tiệc này, hai họ sẽ làm lễ "dứt lời" (quyết định đám cưới). Nhìn chung, nghi thức dạm hỏi cũng như lễ hỏi cũng giống như các dân tộc khác, chỉ khác là nhà gái đi hỏi chồng bên nhà trai và không có chuyện thách cưới, ngoài ra có thêm lễ "dứt lời" để đi đến quyết định tổ chức đám cưới.
Cũng như các dân tộc khác, người Chăm cũng quan niệm ngày lành tháng tốt trong một năm. Nhưng đối với người Chăm, một dân tộc có quan niệm âm dương lưỡng hợp rất rõ nét nên mọi quy định đểu phải phù hợp với quy luật này. Đám cưói của người Chăm, do là chế độ mẫu hệ nên lễ cưới thuộc âm. Vì vậy, lễ cưới của người Chăm phải chọn vào đúng các tháng 3,6,10,11 lịch Chăm và phải nhằm vào những ngày hạ tuần trăng (thuộc âm - từ đêm trăng tròn đến khi hết trăng). Ngày cưới phải thuộc vào ngày chẵn (các số thuộc âm) :2,4,6,8,10,12,14 Chăm lịch và phải vào ba ngày (thứ ba, thứ tư, thứ năm) trong tuần. Trong ba ngày ấy, lễ chính thức thuộc vào thứ tư. Giờ bắt đầu lễ cưới phải bắt đầu buổi chiều (buổi chiều thuộc âm). Cách tính ngày giờ tốt xấu của người Chăm khá phức tạp nhưng chặt chẽ, tuân thủ theo những quy luật nhất định và phải quán xuyến thống nhất từ đầu đến cuối, lễ cưới thuộc âm và mang tính "mẹ" rất rõ ràng. Đây là một phong tục thể hiện chế độ mẫu hệ bao trùm suốt chiều dài lịch sử văn hoá dân tộc Chăm.
Một nét khá độc đáo trong đám cưới người Chăm Bàlamôn là người chủ lễ. Chủ lễ cưới của người Chăm Bàlamôn được gọi là ông bà Nưmư (cha mẹ đỡ đầu). Ông bà nưmư phải là người có uy tín và am hiểu phong tục tập quán, thuộc các bài khấn vái trong các tiểu lễ. Đặt trường hợp ông bà nư mư không thuộc hoặc chưa quen việc cúng kính, có thể mời một ông thầy khác cúng thay, nhưng chủ lễ vẫn là ông bà nưmư. Ông nưmư phải có tuổi hợp với cô dâu chú rể, có gia đình và "một cột, một kèo", đông con cái, có gia tài, có sự nghiệp kha khá. Ngoài ra, luật tục còn quy định, trong một năm ông nưmư chỉ được làm chủ hôn một lần vì theo quan niệm, cha mẹ mỗi năm chỉ đẻ được một con. Ông bà nưmư thay mặt cho cha mẹ đẻ tổ chức hôn lễ cho đôi vợ chồng với trách nhiệm là cha mẹ đỡ đầu, ông bà nưmư có trách nhiệm giới thiệu đầy đủ bà con họ hàng hai bên cho cô dâu chú rể, và cô dâu chú rể phải bằng mọi cách để nhớ được các vai vế trong bà con hai họ.
Một nét văn hoá khá độc đáo trong đám cưới người Chăm Bàlamôn là trong ngày cưới, cha mẹ đẻ của cô dâu chú rể phải đi trốn, lánh mặt không xuất hiện trong các lễ thức đưa đón rể và lễ nhập phòng the. Đây là một hiện tượng văn hoá hiếm thấy ở các dân tộc khác. Khi hỏi một số người già Chăm, họ giải thích như sau: Tuy cha mẹ là người có công sinh thành, nuôi dưỡng cô dâu chú rể nhưng khi lớn lên là con cháu của họ hàng. Người Chăm có câu thành ngữ:
"Toh tet nưh a mư thong mư; tăn prong nưh kâu pa chan"
Có nghĩa là:
"Lúc còn nhỏ là con của cha mẹ, lớn lên là con của họ hàng".
Vì vậy, khi cưới, cha mẹ giao hết con cái mình cho ông bà nưmư và bà con họ hàng. Khi rước rể về, cha mẹ hai bên đi trốn, lánh mặt là để cô dâu chú rể làm quen với bà con trong tộc họ hai bên trước. Chỉ sau lễ nhập phòng the, cha mẹ mới xuất hiện. Họ hàng đối với người Chăm rất quan trọng. Sau khi cưới, cô dâu chú rể phải đi thăm hết bà con họ hàng. Nếu ra đường gặp người trong họ mà không biết, không chào hỏi đúng ngôi thứ sẽ bị chê cười. Thậm chí, lỡ có xung đột, cô dâu chú rể cũng phải nhịn, phải chịu thua thì mới tỏ lòng tôn kính những người trong tộc họ.
Một phong tục khá độc đáo trong lễ cưới của người Chăm Bàlamôn là nghi thức "ba đêm cấm động phòng". Trong ba ngày cưới, ngày đầu tiên, sau lễ đưa, đón rể là lễ nhập phòng the. Ông nư mư nhà trai dùng tay phải (dương) cầm tay chú rể đưa cho ông nưmư nhà gái. Ông nưmư nhà gái đón nhận tay chàng rể bằng tay trái (âm) từ tay ông nưmư và dắt vào phòng the. Sau các lễ thức cúng kính và yểm bùa trải chiếu, gối, ông nưmư dặn chú rể, bà nưmư dặn cô dâu trong ba ngày đêm ở phong the được làm gì, không được làm gì. Cô dâu, chú rể lúc này được nằm hay ngồi trên chiếu tuỳ thích, nhưng ở giữa hai người là một chiếc cổ bồng mâm tơ hồng gồm trầu cau, nến sáp cháy suốt ngày đêm. Xung quanh vách tường, trên chiếu gối đều đã được ông thầy yểm bùa. Ba đêm trong phong the ấy, cô dâu chú rể đã được căn dặn là không được "đụng nhau", phải ở nguyên vị trí của mình. Chỗ ai nấy nằm, gối ai nấy kê, ở giữa là mâm tơ hồng ngăn cách. Ba đêm dài đằng đẵng như ba thế kỷ, hai người ở bên nhau phải "thụ thụ bất thân", chỉ được trò chuyện, ngắm nhìn nhau trong khao khát cháy bỏng, phải kìm nén nhục dục. Có thể, trong thời gian thiêng, trong không gian thiêng ấy, họ cảm thấy yêu nhau mãnh liệt và cần nhau đến mức nào?
Việc kiêng ba ngày đêm đầu tiên không dược ăn nằm với nhau là một phong tục đã có từ lâu đời của người Chăm và người Chăm coi đây là một nét đẹp trong phong tục tập quán của minh. Các cụ già Chăm giải thích rằng, sở dĩ có tục ba đêm cấm động phòng đó là vì, ngày xưa, quyết định hôn nhân là do cha mẹ hai bên sắp đặt, nhiều đôi trai gái chưa quen biết nhau và đa số là còn ít tuổi. Có khi đến ngày cưới mới biết mặt nhau, còn lạ lẫm, mắc cỡ, thậm chí sợ sệt khi lần đầu tiếp xúc với "chuyện ấy". Ba đêm vừa để hai người từ lạ lẫm làm quen nhau, tìm hiểu nhau. Ở một khía cạnh khác, các cụ giải thích rằng, ba ngày cưới là ba ngày rất bận rộn và mệt nhọc của cô dâu và chú rể vì phải trải qua khá nhiều lễ thức. Sau ba ngày đêm, khi lễ cưới đã xong xuôi, khách khứa họ hàng gần xa đã về hết, cô dâu chú rể mới thảnh thơi tận hưởng đêm tân hôn. Cũng có một số nhà nghiên cứu văn hoá Chăm đề cập nhưng mới chỉ nêu hiện tượng, chưa lý giải cũng như chưa truy tìmm nguồn gốc phong tục này. Qua qua trình nghiên cứu, lục tìm tài liệu về Bàlamôn giáo, chúng tôi thấy tục ba đêm cấm động phòng có nguồn gốc từ Ấn Độ. Ba ngày trong lễ cưới, cô dâu chú rể không được chăn gối đã được ghi trong kinh tình yêu "kamasutra" của Ấn Độ cổ: Ba đêm đầu, vợ chồng phải ngủ trên nề nhà và phải kìm giữ nhục dục..." Người Ấn Độ xưa rất đề cao sinh hoạt tình dục sau khi cưới và đẩy lên thành nghệ thuật mà điển hình là bộ kinh tình yêu còn đến hôm nay.
Sau ba đêm, ông nưmư làm một lễ nhỏ để tháo gỡ các bùa chú đã yểm trên gối chiếu trong phòng the. Bà nưmư căn dặn cô dâu kỹ càng chuyện phong the, ông nưmư cũng tranh thủ truyền đạt kinh nghiệm cho chú rể trước đêm động phòng.
Rõ ràng, đám cưới truyền thống của người Chăm Bàlamôn còn giữ được rất nhiều phong tục tập quán tốt đẹp, đặc biệt là không có tục thách cưới và các nét văn hoá tốt đẹp kể trên. Tuy nhiên, những năm gần đây, đám cưới của người Chăm Bàlamôn cũng đã và đang bị ảnh hưởng của người Kinh, nhiều đám cưới tổ chức trang trí cầu kỳ, cô dâu chú rể bỏ dần trang phục cưới truyền thống vốn rất đẹp của người Chăm, nhiều đám tổ chức ăn nhậu linh đình, tốn kém, thậm chí cũng thu phong bì phong bao như các đám cưới "tân thời" khác.
Nguồn: dulichthanhnien.com.vn
Các tin cũ hơn
- Mâm quả cho lễ xin dâu sẽ bao gồm những lễ vật nào? (2018-05-19 12:13:00)
- Đội hình bưng quả trong đám cưới sao Việt (2018-01-31 16:04:08)
- Đội ngũ bưng quả những cô gái Ê Đê cực kỳ xinh đẹp (2018-01-31 15:43:46)
- Ý nghĩa của lễ dạm ngõ là gì? (2017-08-27 17:25:09)
- Lễ dạm ngõ theo phong tục ba miền Bắc Trung Nam (2017-08-26 18:01:34)